Trên bản đồ du lịch Việt Nam có nhiều bản làng đẹp của người dân tộc Thái được đầu tư phát triển du lịch. Ở Mai Châu Hòa Bình có bản Lác xinh đẹp – nơi mà người dân cư trú trong những nếp nhà sàn nằm giữa ruộng lúa mênh mông, hùng vĩ. Ở bản Lác, bạn có thể thư thả đi dạo khắp bản, ăn những món ngon và thả ga sống ảo.

Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng giá trị của độc lập, tự do

PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?

TS Nguyễn Thị Liên: Ngày 17/7/1966, Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi lịch sử ấy, có câu nói nổi tiếng bất hủ và đã trở thành chân lý của mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn, để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Đất nước Việt Nam khi ấy nhỏ bé về địa lý, kiệt quệ về tài chính bởi chính sách vơ vét, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nhưng nhờ sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được. Chúng ta đã vượt qua.

PV: Thưa tiến sĩ, từ tinh thần quật khởi của dân tộc ta trong những ngày đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà suy nghĩ thế nào về sức mạnh của tinh thần yêu nước Việt Nam trong suốt hành trình đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ núi sông, bờ cõi?

TS Nguyễn Thị Liên: Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII, đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta.

Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân. Nhân dân là người làm nên lịch sử, sức dân là vô địch. Chính những người dân chân lấm, tay bùn, biết bao đời lao động cần cù, hai sương một nắng, đã dời núi, lấp biển dựng nên hình hài Tổ quốc. Và đã biết bao lần mang xương máu của mình tạo nên bức tường thành vững chắc để giữ gìn, bảo vệ quê hương, đất nước tươi đẹp của chúng ta.

Vài nét đặc sắc về văn hóa của người Thái

Khi dành thời gian tìm hiểu về dân tộc Thái, bạn sẽ thấy đây là một dân tộc làm nông nghiệp khá giỏi. Họ chủ yếu phát triển cuộc sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và nuôi các loại gia súc, gia cầm. Ngoài ra, người Thái còn làm gốm, đan lát, dệt vải,… Có dịp khám phá bản Lác ở Mai Châu Hòa Bình, bạn sẽ hiểu hơn về cuộc sống của người dân nơi đây.

Đi thăm những bản làng đẹp của người Thái, bạn sẽ thấy họ sinh sống trong những ngôi nhà sàn rất đẹp. Kiến trúc nhà sản được xây dựng với nóc hình mai rùa, nhà có lan can cẩn thận, có khung cửa sổ trang trí rất độc đáo. Đặc biệt, người Thái Đen còn đặt tên riêng cho các gian nhà.

Tùy vào địa bàn cư trú mà người Thái thường xây nhà ở vị trí dưới khu vực chân núi. Xung quanh là ruộng lúa, là vườn cây xanh tươi mướt mát rất đẹp. Giữa phong cảnh hữu tình của những vùng núi cao, nếp nhà người Thái hiện lên với vẻ đẹp bình yên, mang lại cảm giác rất thư thả, thoải mái cho du khách.

Càng tìm hiểu về dân tộc Thái, du khách càng nhận ra nhiều điều hay ho và thú vị của họ. Trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, người Thái là một dân tộc rất thích ca hát, nhảy múa, làm thơ, đệm đàn. Họ có điệu múa xòe, múa sạp rất nổi tiếng, trở thành di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam.

Đặc biệt, đây cũng là dân tộc có rất nhiều lễ hội lớn nhỏ trong năm. Tiêu biểu là lễ hội hoa ban để cầu mưa, cầu phúc cho người dân. Bên cạnh đó còn có lễ hội cơm mới, cầu mưa, cầu mùa,… với nhiều hoạt động tưng bừng, nhộn nhịp. Có dịp du lịch Lai Châu, Hòa Bình, Điện Biên,… du khách sẽ có cơ hội tham gia những lễ hội đặc biệt này.

Tham dự các lễ hội của người Thái, bạn còn được chiêm ngưỡng các thiếu nữ Thái diện trang phục truyền thống rất đẹp. Mỗi nhóm nhỏ trong cộng đồng dân tộc Thái sẽ có trang phục với dấu ấn riêng. Tuy nhiên về cơ bản, họ sẽ mặc váy đen không hoa văn, kết hợp với áo ngắn hoặc áo dài có cúc áo đẹp. Đặc biệt, người dân tộc Thái còn nổi tiếng với chiếc khăn piêu đội đầu được dệt kỳ công, tinh xảo.

Về văn hóa tâm linh, người Thái cho rằng con người sau khi chết đi sẽ tiếp tục “sống” ở một thế giới khác. Đám tang là một lễ để tiễn người chết về với “Mường Trời”. Người chết sẽ được chôn trong rừng – nơi có nhà mồ và nấm mộ rất chỉn chu. Về cơ bản, quan niệm tâm linh này cũng giống như nhiều dân tộc khác tại Việt Nam.

Khi về thăm các bản làng của người Thái ở miền núi phía Bắc nước ta, du khách còn có cơ hội trải nghiệm những món ngon truyền thống. Một số món ngon nổi tiếng mà du khách cực yêu thích chính là cơm lam, nộm hoa ban, canh bon, nậm pịa, nộm rau dớn, rêu đá nướng, pa pỉnh tộp,… Mỗi món ăn với hương vị thơm ngon đặc trưng chắc hẳn sẽ khiến du khách nhớ mãi.

Tuyên ngôn độc lập khẳng định khát vọng tự do, độc lập

PV: Trong Bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tại Quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945, Người đã khẳng định đanh thép rằng“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Theo bà, lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa như thế nào trong thời điểm lúc bấy giờ?

TS Nguyễn Thị Liên: Có thể khẳng định, độc lập dân tộc, đó là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Trước quốc dân đồng bào, vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn độc lập khẳng định khát vọng tự do, độc lập và ý chí quyết tâm bảo vệ những khát vọng đó của dân tộc Việt Nam.

Để làm nên Cách mạng Tháng Tám, giành độc lập cho dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã trải qua chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh. Hàng ngàn chiến sĩ bị địch bắt, khủng bố, tra tấn dã man. Trong thời kỳ này, chúng ta bị bắt không còn một đồng chí Ủy viên Trung ương nào. Đó là sự thiệt hại mất mát to lớn của cách mạng Việt Nam. Vượt lên những tổn thất ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam cùng sự đồng thuận của toàn thể dân tộc Việt Nam đã đưa cuộc cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành chính quyền.

PV: Giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền lại càng khó khăn hơn. Lời khẳng định của Bác cũng là lời nhắc nhở để toàn dân tộc chúng ta chuẩn bị cho những ngày tháng cam go, ác liệt đang chờ phía trước?

TS Nguyễn Thị Liên: Vâng, câu nói của Bác cũng là động lực, nhắc nhở toàn dân tộc sẵn sàng chuẩn bị cho những thử thách phía trước. Bởi vì, sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước trải qua vô vàn khó khăn. Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định, Chính phủ cách mạng lúc đó là một Chính phủ “không tiền”; về văn hóa - xã hội với hơn 90% dân số mù chữ. Về đối ngoại, chúng ta không được nước nào công nhận nền độc lập, chính quyền non trẻ; quân đồng minh kéo vào Đông Dương cùng với 20 vạn quân Tưởng, thù trong, giặc ngoài…tình thế đất nước khi ấy như ngàn cân treo sợi tóc. Như vậy, vượt qua những khó khăn, thử thách, nhân dân Việt Nam không có mong muốn gì hơn là nền hòa bình, độc lập thực sự, toàn vẹn lãnh thổ, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, Nhân dân Việt Nam được tự do, hạnh phúc.

PV: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, chúng ta đã ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chúng ta đã phải đương đầu với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai. Vậy là chặng hành trình gìn giữ, bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam đã bắt đầu phải không, thưa bà?

TS Nguyễn Thị Liên: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta lần thứ 2. Sau rất nhiều nỗ lực ngoại giao, thể hiện thiện chí hòa bình của dân tộc nhưng vẫn bị Pháp khước từ và chúng dã tâm quyết cướp nước ta lần nữa. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử dựng nước và giữ nước, mong muốn hòa bình để dựng xây đất nước là khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Cho nên, Người khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do - thành quả của Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.